Bé trai tám tháng tuổi Little Rui Rui đã qua đời vài tháng sau khi được tiêm vắc xin. Trước khi chết, cơ thể của bé có dấu hiệu lão hóa thành người già.

Bé Rui Rui trước và sau khi tiêm vắc xin - Ảnh: AsiaOne

Lần đầu bé được tiêm vắc xin Bacillus Calmette-Guerin (BCG) vào ngày 26-10 năm ngoái tại một bệnh viện ở tỉnh Chiết Giang.

Lúc đó, việc tiêm vắc xin là để cơ thể bé có khả năng đề kháng bệnh lao phổi. Tuy nhiên, một tháng sau khi tiêm, các hạch bạch huyết của bé bắt đầu sưng lên.

Chỉ vài tuần gần đây, cuộc sống của bé Rui Rui gần như ngàn cân treo sợ tóc. Cơ thể của bé teo nhỏ lại làm lộ ra lớp xương sườn gầy còm. Da của bé trở nên nhăn nheo và tự tróc ra.

Bé Rui Rui đã từng được chuyển đến điều trị tại Hàng Châu, Thượng Hải và một số nơi khác nhưng do gia đình không kham nổi chi phí đắt đỏ (575 USD/ngày) nên bé được chuyển về bệnh viện cũ tại Chiết Giang vào ngày 5-5.

Thân thể bé Ruirui bỗng teo tóp lại, còn da thì tự tróc ra - Ảnh: AsiaOne

Trung tâm Y tế Lâm sàng Thượng Hải chẩn đoán bé bị viêm phổi phế quản cấp tính, máu nhiễm khuẩn, phổi nhiễm trùng... và kết luận không còn khả năng có thể cứu chữa cho bé. Cách đây một tuần, vào ngày 19-5, bé Ruirui đã qua đời.

Theo báo chí Trung Quốc, dân chúng đã phẫn nộ về việc sử dụng vắc xin BCG này. Đại diện Sở Y tế đã phải nhanh chóng lên tiếng giải thích rằng những gì xảy ra với Ruirui là do khiếm khuyết của hệ miễn dịch trong cơ thể bé. Vị này cho biết thêm xác suất để một trường hợp tương tự xảy ra với trẻ em khác là rất hiếm, khoảng 0,19-1,56 trên tổng số một triệu em.

Thân thể bé Ruirui bỗng teo tóp lại, còn da thì tự tróc ra - Ảnh: AsiaOne

Muỗi đang có xu hướng kháng hóa chất khiến việc cố gắng tiêu diệt muỗi ở nhiều khu dân cư, nhiều hộ gia đình không có kết quả. Trong khi muỗi là nguồn lây truyền khá nhiều bệnh...

Phun thuốc diệt muỗi các phòng làm việc - Ảnh: THANH ĐẠM

Nhà nằm dọc sông Tô Lịch, chị Vũ Ngọc Anh (ngụ Cầu Giấy, Hà Nội) than thở: “Mới đầu hè mà chỗ nào cũng đầy muỗi. Tự xịt bằng bình xịt muỗi không ăn thua, nhà tôi thuê cả “đội hóa chất” tiếp thị hằng ngày ở xóm đến phun diệt trừ mà tình hình không cải thiện”.

Không riêng chị Ngọc Anh, nhiều gia đình tại Hà Nội, nhất là gia đình có con nhỏ, quá lo trước thông tin dịch sốt xuất huyết gia tăng mỗi ngày đã vội vã thuê những “đội hóa chất” rong đến để diệt trừ muỗi.

Theo TS Phạm Thị Khoa, trưởng khoa hóa thực nghiệm Viện Sốt rét - ký sinh trùng và côn trùng trung ương, hiện người dân lạm dụng mua hóa chất về phun hoặc tự ý đăng ký dịch vụ phun hóa chất diệt muỗi giá rẻ vừa không có tác dụng, vừa làm tăng kháng hóa chất, có thể tiến đến nguy cơ không có hóa chất nào tiêu diệt được loài côn trùng có khả năng lây truyền bệnh dịch này. Trước đây, với những hóa chất hiện có muỗi có thể bị diệt đến 98-100%. Nay cùng loại hóa chất đó, lượng muỗi bị diệt chỉ đạt mức 60-70%.

Một phát hiện khá bất ngờ của các nhà khoa học Viện Sốt rét - ký sinh trùng và côn trùng trung ương là nước đọng lại từ máy điều hòa chảy ra lại là nơi trú ngụ, sinh sản ưa thích của muỗi Aedes aegypti. Do đó, người dân cần thường xuyên làm sạch vùng nước đọng từ máy điều hòa.

Nghiên cứu mới đây của Viện Sốt rét - ký sinh trùng và côn trùng trung ương cho thấy mức độ kháng hóa chất của muỗi ngày càng mạnh mẽ, rải khắp ba miền Bắc, Trung, Nam.

Theo đó, loài muỗi truyền bệnh sốt xuất huyết Aedes aegypti đã kháng với các hóa chất đã và đang sử dụng rộng rãi trong lĩnh vực y tế và gia dụng: DDT 4% và các hóa chất nhóm Pyrethroids: permethrin, lambda-cyhalohin, deltamethrin và alphacypermethrin với tỉ lệ muỗi chết 52,25% (Hà Nội), 3,03% (Nha Trang), 16% (TP.HCM), 13,37% (Kiên Giang), 6,15% (Đồng Nai), 14,58% (Đắk Lắk).

Theo Th.S Nguyễn Văn Dũng, khoa côn trùng Viện Sốt rét - ký sinh trùng và côn trùng trung ương, khảo sát riêng tại Hà Nội có đến hơn 50 công ty tư nhân mở dịch vụ phun hóa chất diệt muỗi, gián, côn trùng cho hộ gia đình. Song mục tiêu chính của họ chỉ là bằng mọi cách làm hài lòng tức thời “thượng đế”, làm sao để muỗi, gián chết càng nhiều càng tốt. Khi một loại hóa chất bị kháng, không diệt được muỗi nữa thì họ tự động trộn nhiều loại hóa chất với nhau.

“Cả việc tùy tiện tăng liều hay pha trộn chất nọ vào chất kia đều làm tăng kháng hóa chất ở muỗi”, ông Dũng khẳng định. Quy định của Bộ Y tế chỉ rõ việc chọn hóa chất phun diệt muỗi phải được thử nghiệm từng bước, tỉ lệ muỗi chết 90-100% mới chọn mua. “Trong hóa chất chắc chắn có độc chất. Sử dụng, pha chế bừa bãi sẽ chỉ ngấm ngầm gây hại cho sức khỏe con người”, TS Phạm Thị Khoa cho hay.

Về nguyên tắc phòng dịch, việc phun chỉ đạt hiệu quả bằng kỹ thuật phun sương. Nếu phun đúng liều, muỗi không đạt mức bị tiêu diệt đến 90-100% thì đó là hóa chất dỏm. TS Phạm Thị Khoa cho hay bản chất của việc phun hóa chất diệt muỗi chủ yếu để dập dịch và chống lây lan thành dịch. Theo đó, hóa chất chỉ dùng diệt muỗi ở vùng có bệnh nhân sốt xuất huyết một cách tức thời (trong 1-2 ngày), chứ hoàn toàn không có tác dụng lâu dài, đặc biệt với muỗi đã kháng hóa chất.

TTO


Rút ra từ cuộc sống và trải nghiệm:


Bí quyết thứ nhất, quan trọng nhất, đó là ĂN VỪA ĐỦ. Những người ham hố ăn uống rất chóng già, vì thức ăn đưa vào làm cho cơ thể phải tiêu hao rất nhiều năng lượng để tiêu hóa. Khi vừa đủ, thì cân bằng, khi nhiều thì tích lại thành u, tạo viêm và tạo mỡ thừa trong các thành mạch (gây xơ, vữa, tăng mỡ máu v.v...)
Mỗi người có một “cái cân” riêng, vì vậy vừa đủ nghĩa là “ngay khi cảm thấy lưng lửng” – 75% đến 80% dạ dầy. Nên đứng dậy rời khỏi mâm cơm, dù vẫn còn thèm ăn.

Bí quyết thứ hai, ĂN CHAY. Rau, củ, đậu, đỗ, ngô, khoai, sắn, rong tảo, hoa quả ... vốn là những thức ăn đơn giản, dễ tiêu hóa & ít tốn năng lượng để tiêu hóa, mang ít chất độc hại hơn thực phẩm gốc động vật (đặc biệt là các chất độc sinh ra trong quá trình chăn nuôi, giết mổ, chế biến ...). Những thức ăn này giàu chất xơ nên giúp cơ thể thải độc vô cùng hiệu quả.

Bí quyết thứ ba, sử dụng NGŨ CỐC NGUYÊN CÁM, và càng nguyên hạt càng tốt. Ngũ cốc nguyên cám chứa nhiều vitamine và chất khoáng, rất tốt cho sự hấp thụ cân bằng của cơ thế. Chúng còn chứa nhiều chất xơ, giúp hệ tiêu hóa làm việc trơn tru và giúp thải loại mỡ thừa bám ở thành mạch cũng như các chất độc trong máu ra ngoài. 

Bí quyết thứ tư: giảm thiểu tiến đến LOẠI BỎ các loại ĐƯỜNG, mật ong... ra khỏi thực đơn. Các chất ngọt này trở thành acid trong cơ thể, và chính là một trong các nguyên nhân hàng đầu dẫn đến nhăn da và già sớm, vì acid thích lũy trong cơ thể gây ra quá trình oxy hóa dòng máu, dẫn đến lão hóa nhanh chóng (lão hóa là một tiến trình oxy hóa).

Bí quyết thứ năm, uống đủ nước, vận động đủ & thích hợp, ngoài trời. Mỗi khi bạn ra được mồ hôi là trái thận của bạn cảm ơn bạn vô cùng, vì nó đỡ phải làm việc nhiều. Ánh sáng mặt trời là vô cùng cần thiết cho chuyển hóa của cơ thể, vì vậy nên tận dụng ánh sáng mặt trời khi có thể.


Chúc tất cả một cuộc sống khỏe mạnh, trẻ trung và luôn bình yên trong tâm hồn.

Nam Mô A Di Đà Phật.

Bệnh lây truyền bằng cách nào? Nên điều trị và theo dõi bệnh ra sao? Kết hôn với người bị bệnh viêm gan siêu vi có bị sao không?... Đó là những băn khoăn của nhiều bạn đọc gửi đến các bác sĩ tại buổi tư vấn trực tuyến về bệnh viêm gan siêu vi được Tuổi Trẻ tổ chức sáng qua 18-5.

Chích ngừa văcxin viêm gan B cho trẻ tại Bệnh viện Từ Dũ - Ảnh: N.C.T.

Gần 1.000 câu hỏi của bạn đọc về bệnh viêm gan siêu vi B, C và A được gửi đến các bác sĩ tham gia tư vấn trực tuyến chứng tỏ mức độ “nóng” và sự quan tâm đặc biệt của bạn đọc đến căn bệnh thời sự này.

Theo dõi định kỳ

Về điều trị viêm gan siêu vi C, BS Nguyễn Hữu Chí - phó chủ nhiệm bộ môn nhiễm Đại học Y dược TP.HCM - cho biết ở VN cũng như trên thế giới, phác đồ điều trị tốt nhất cũng không mang lại kết quả 100%. Đối với viêm gan siêu vi C, điều trị thành công là khi sau sáu tháng ngưng thuốc (thời gian điều trị tùy thuộc vào type siêu vi C) mà không tìm thấy siêu vi C trong máu của bệnh nhân. Những trường hợp này, tỉ lệ tái phát sau năm năm không vượt quá 1%, vì vậy có thể được xem là hết bệnh.

Rất nhiều bạn đọc đã hỏi bệnh lây truyền bằng cách nào, phòng ngừa được không. Thậm chí có bạn đọc còn lo lắng không biết ăn uống chung với người bị viêm gan siêu vi có bị lây bệnh. Các bác sĩ cho biết bệnh viêm gan siêu vi A thường lây qua đường tiêu hóa, biểu hiện bệnh chủ yếu vào giai đoạn cấp tính, không để lại hậu quả và di chứng lâu dài về sau.

Riêng viêm gan siêu vi B và C lây truyền qua ba đường: máu, tình dục và mẹ truyền cho con. Vì vậy để phòng ngừa phải lưu ý không tiêm chích, sử dụng chung những vật dụng có khả năng dính máu với người khác; không sử dụng ma túy; quan hệ tình dục an toàn; thăm khám thai và tuân theo chỉ dẫn của bác sĩ khi mang thai, đặc biệt ở những bà mẹ mang thai có nhiễm siêu vi B, C.

Bệnh viêm gan siêu vi B có thể điều trị khỏi được không? Sao cùng bị viêm gan siêu vi B nhưng có người phải điều trị, có người thì không? Phác đồ điều trị như thế nào, kéo dài bao lâu? Câu hỏi này của bạn Trần Trung Long, 21 tuổi, cũng là điều hàng trăm bạn đọc khác băn khoăn hỏi các bác sĩ.

Giải đáp vấn đề này, ThS. BS Lê Thị Tuyết Phượng - phó khoa nội tiêu hóa Bệnh viện Nhân Dân 115 - cho biết viêm gan siêu vi B có hai dạng, một là cấp tính: có thể khỏi hoàn toàn và tạo được kháng thể miễn dịch suốt đời. Việc điều trị trong giai đoạn cấp đa số chỉ cần nghỉ ngơi và có các biện pháp hỗ trợ thích hợp. Hai là mãn tính: nếu ở dạng không hoạt động chỉ cần theo dõi định kỳ, chưa cần điều trị đặc trị. Nếu ở dạng hoạt động, căn cứ vào trường hợp cụ thể, bác sĩ sẽ lựa chọn thuốc điều trị đặc trị dạng uống hoặc chích. Thời gian điều trị tùy từng bệnh nhân nhưng thông thường phải kéo dài từ một đến vài năm, thậm chí một số người phải điều trị suốt đời.

Theo bác sĩ Phượng, khi bị nhiễm siêu vi B mãn tính, mục tiêu của điều trị là làm sao thải trừ được virut đến mức không phát hiện được trong máu, hạn chế tối đa gây tổn thương gan, hạn chế tỉ lệ xơ gan, ung thư gan. Tỉ lệ bệnh nhân được chữa khỏi hẳn siêu vi B mãn tính rất thấp.

Các khách mời tham gia buổi giao lưu trực tuyến “Bệnh viêm gan siêu vi - chẩn đoán, phòng ngừa và điều trị” tại tòa soạn báo Tuổi Trẻ sáng 18-5 - Ảnh: T.ĐẠM

Kết hôn, sinh con bình thường

Bị viêm gan siêu vi B có nên lập gia đình và sinh con không, nếu có thì cần lưu ý gì? Băn khoăn của bạn Lương Quốc Sinh, 24 tuổi, được TS.BS Phạm Thị Lệ Hoa - phó chủ nhiệm bộ môn nhiễm Đại học Y dược TP.HCM - khẳng định người bị nhiễm siêu vi B vẫn lập gia đình và có con bình thường. Nếu mang thai mà có HBeAg dương tính thì có thể truyền siêu vi B cho con.

Tuy nhiên, hiện nay tất cả bé sinh từ mẹ bị nhiễm siêu vi B đều được chích văcxin và dùng HBIg ngay sau sinh để được bảo vệ trong tháng đầu đời. Trẻ cũng cần được xét nghiệm HBsAg và antiHBs sau 18 tháng để bảo đảm việc chủng ngừa theo chương trình tiêm chủng mở rộng là hiệu quả và có kháng thể bảo vệ. Ngoài ra, viêm gan siêu vi B không lây từ cha sang con, chỉ lây từ mẹ sang con.

Phụ nữ mang thai bị bệnh viêm gan siêu vi B có chữa trị được không? Khi nào tiến hành chữa trị? Cần kiêng ăn, uống gì? TS.BS Phạm Thị Lệ Hoa cho biết phụ nữ mang thai nhiễm viêm gan siêu vi B không có tăng men gan và chưa điều trị thì không cần điều trị cho đến khi sinh đủ số con mong muốn. Khi không còn muốn mang thai thêm, có thể cân nhắc các chủ định điều trị để kiểm soát virut và phòng ngừa biến chứng xơ gan, ung thư gan. Trong trường hợp bệnh đã có biến chứng xơ gan hay xơ hóa gan nặng thì nên tránh mang thai vì có thể nguy hiểm cho mẹ.

Một bạn đọc nam bị viêm gan siêu vi B đặt câu hỏi bị bệnh viêm gan siêu vi B có ảnh hưởng đến tinh trùng hoặc khả năng có con, có lây nhiễm cho vợ? ThS. BS Lê Thị Tuyết Phượng giải thích nếu người vợ đã chích ngừa viêm gan B và có đủ kháng thể bảo vệ thì sẽ không bị lây nhiễm từ chồng và ngược lại. Nhiễm viêm gan B ở dạng không hoạt động sẽ không ảnh hưởng đến tinh trùng hoặc khả năng có con, tuy nhiên nếu viêm gan mãn hoặc xơ gan sẽ có ảnh hưởng.

Khi nào chuyển sang xơ gan, ung thư?

Một số bạn đọc còn lo lắng về nguy cơ chuyển sang ung thư gan, khi nào và mất bao nhiêu thời gian thì viêm gan siêu vi B, C sẽ chuyển sang ung thư gan? BS Trần Nguyên Hà - trưởng khoa nội 4 Bệnh viện Ung bướu TP.HCM - cho biết cả viêm gan siêu vi B và C đều được coi là yếu tố nguy cơ gây ung thư gan. Tuy nhiên, không phải ai bị viêm gan B, C cũng sẽ chuyển sang xơ gan hay ung thư nếu có chế độ dinh dưỡng, sinh hoạt thích hợp. Người bị bệnh vẫn có thể sống chung với viêm gan siêu vi mà không chuyển qua xơ gan hay ung thư gan (chỉ có một tỉ lệ nhỏ bệnh viêm gan mãn tính kết hợp với nhiều yếu tố nguy cơ khác mới dẫn đến xơ gan và ung thư gan).

Khi đến giai đoạn ung thư gan là bó tay phải không bác sĩ? Trả lời câu hỏi này của bạn đọc Nguyễn Thị Mão, 78 tuổi, BS Trần Nguyên Hà cho biết tùy giai đoạn của bệnh mà tiên lượng của người bị bệnh ung thư gan có khác nhau. Nếu phát hiện sớm, bướu còn nhỏ và không có bệnh lý gan khác đi kèm như xơ gan thì phẫu thuật là phương pháp có thể điều trị tận gốc. Nếu không phẫu thuật được, cũng có những phương pháp khác để điều trị như TOCE, TACE, phẫu thuật đông lạnh, diệt bướu bằng sóng cao tần... Ngoài ra mới đây người ta còn điều trị ung thư gan giai đoạn trễ bằng thuốc sinh học hay còn là liệu pháp nhắm trúng đích.

TTO

Rau củ hấp (bằng xửng hoặc bằng cái chõ inox) thường có vị ngọt đậm hơn nhiều so với rau củ luộc hay xào, đồng thời vẫn giữ được độ giòn và màu sắc như khi còn tươi. Rau củ hấp cũng giữ được vitamin nhiều hơn luộc, xào. Món này “đi” với các món nặng như rán, kho rất là hợp.

Cách làm cực kỳ đơn giản, rau củ xắt vừa ăn (có thể phối hợp nhiều loại với nhiều màu sắc cho vui mắt, và ngon miệng. Lưu ý các loại rau khác nhau có thể có thời gian chín khác nhau, sau 1 thời gian nấu nướng thì sẽ quen), cho vào xửng. Nước có thể đun sôi sẵn, sau đó cho xửng vào hấp. Rau dễ chín cho lên trên, rau lâu chín cho xuống dưới.

Thời gian chín thông thường là:

-        rau lá (rau cải thảo, cải bắp, cải bẹ): chừng 5-7 phút (sau khi nước sôi)
-        hoa lơ, hoa lơ xanh: 7-10 phút
-        củ cải, cà rốt: 10-12 phút

nếu muốn phối hợp các loại rau trên cùng nhau thì nên để cà rốt củ cải xuống đáy xửng, tiếp đến là hoa lơ và sau cùng là rau lá. Thời gian hấp chừng 10 phút là vừa. Lưu ý không nên “xếp” rau quá nhiều và quá kín vì làm như vậy sẽ không có chỗ trống cho hơi nước vào làm chín món ăn.

Các loại rau củ hấp có thể chấm tương hoặc chấm nước mắm hay nước của món kho. Nước hấp có thể dùng để nấu soup hoặc để uống sau khi ăn cơm (không nên chan canh khi ăn cơm).

Với một người mạnh khoẻ, bữa ăn quân bình khi lượng cơm lứt chiếm ít nhất 50%-60%, rau củ 25-30%, canh (soup) 5 %, đậu đỗ và các sản phẩm của nó (đậu phụ, tempeh, natto ...) 10-15%, ngoài ra có thể thêm 5% rong biển. Thi thoảng có thể ăn hoa quả đúng mùa, ăn cả vỏ (nếu còn ăn thịt).


Nam Mô A Di Đà Phật.

Trong các phương pháp dưỡng sinh của nhiều dân tộc trên thế giới, rong biển được coi là thức ăn mang lại sự bền bỉ, dẻo dai cho tinh thần và thể xác con người.

Từ xa xưa, con người đã biết sử dụng các loại hải thảo - rong rêu ở biển để làm thức ăn. Ngày nay, trong một số thức ăn hay thực phẩm chức năng được khuyến cáo cho những người béo phì, cho bệnh nhân tiểu đường và một số bệnh nhân mắc ung thư... cũng có sự hiện diện của rong biển.

Hiện nay con người đã biết được rât nhiều loài rong biển có thể ăn và sử dụng làm thuốc.Trong một chế độ ăn chay, không sử dụng thức ăn động vật, thì rong biển đóng vai trò bổ xung chất khoáng, vitamine vô cùng quan trọng.

Tại sao ? 

Rong biển thanh lọc cơ thể chúng ta bằng cách làm kiềm hóa cơ thể (vốn dư acid do hậu quả của việc sử dụng thức ăn không đúng cách, quá nhiều thực phẩm gốc động vật, đường và sữa). Rong biển còn giúp làm tan chất mỡ và các chất nhầy lắng đọng trong cơ thể.

Carbon hydrad (chất bột đường)

Trong rong biển có chứa từ 30 đến 40% carbon hydrat, trong đó có khá nhiều loại đường. Theo nghiên cứu dược lý, các loại đường này có tác dụng phòng bệnh máu trắng, bệnh đau nhức xương, cầm máu động mạch vành. Carbon hydrat trong rong biển còn ngăn chặn cơ thể hấp thụ các chất phóng xạ đi vào đường ruột, làm giảm mỡ máu, hạ huyết áp, có tác dụng nhất định trong việc chữa bệnh thận, sưng phổi và bệnh quáng gà. 

Các chất khoáng
 
Rong biển có một số thành phần rất đặc biệt bảo vệ sức khỏe, nhất là các loại muối mà nhiều loại rau trồng không có được. Các chất khoáng như kali, muối natri, iod, canxi và sắt trong rong biển có thể phòng ngừa các bệnh sưng phù tuyến giáp trạng, đau xương cốt, loãng xương, thiếu sắt, thiếu máu. Nếu thường xuyên ăn rong biển có thể điều tiết được lượng acid và kiềm trong máu.

Các vitamin
 
Thành phần rong biển chứa khá nhiều vitamin B1, B2, PP và một lượng nhất định vitamin B6, B12, E, C, các acid béo không no, caroten... trong đó vitamin B12 là vitamin không hề có trong các loại rau trồng. Người Nhật Bản rất ưa dùng rong biển. Một số chuyên gia sức khỏe Nhật Bản cho rằng, sở dĩ người dân ở nước này có tuổi thọ cao, sống khỏe mạnh vì có liên quan tới chế độ sử dụng rong biển. 

Theo tổng kết của các chuyên gia y học Nhật Bản, rong biển có tác dụng phòng chống bệnh ung thư, hạ huyết áp, phòng xơ cứng động mạch vành, ngăn ngừa máu đông tụ, kích thích sự bài tiết, duy trì sự cân bằng giữa acid và kiềm trong máu, giảm béo, tăng cường gân cốt và bổ máu.

Do quá trình quang hợp, rong biển đã chuyển hóa được các chất vô cơ trong đại dương thành các chất hữu cơ mà các loại rau trồng trên mặt đất không thể có được. Đi sâu vào những công trình nghiên cứu khoa học, các nhà dinh dưỡng trên thế giới dự đoán rằng; Rong biển chắc chắn sẽ trở thành thực phẩm bảo vệ sức khỏe cho con người trong thế kỷ XXI này.

Các loại rong biển phổ biến hay dùng

- Rong Nori : là loại rong đã được ép thành miếng, có thể đã được nướng sơ qua, thường sử dụng trong món ăn Sushi 
- Rong kanten (agar): là loại rong không mùi vị, hay dùng trong món thạch
- Rau câu: hay được sử dụng để nấu chè
- Rong phổ tai: là loại rong dầy, nằm sâu dưới đáy biển, vô cùng quí giá, giàu dưỡng chất. Có thể dùng nấu canh, soup, muối cùng dưa cải v.v
- Rong hiziki (tóc tiên) : giàu canxi nhất trong các loại rong, rất ngon khi dùng trong salad, xào ...


Nam Mô A Di Đà Phật.


David Briscoe

Ngày nay thức ăn sống chưa qua tinh chế rất phổ biến. Ở Los Angeles và San Francisco, những người béo đang có xu hướng ăn những loại thức ăn này. Rất nhiều người hiểu sai rằng thức ăn chưa qua tinh chế không thuộc loại thức ăn thực dưỡng. Thực tế thì khác xa như vậy. Có rất nhiều loại thức ăn như vậy trên thực đơn như là salad trộn, giá, súp, rau trộn, dưa chua, hoa quả. Loại thức ăn thực dưỡng chưa qua tinh chế thường tươi, có độ giòn và cung cấp đầy đủ vitamin. Những người áp dụng chế độ ăn thực dưỡng có thể thêm vào thực đơn của mình những món như vậy.

Thức ăn chưa qua tinh chế thì có tác dụng không những cho vùng hông mà còn cho cả cơ thể. Chúng giúp làm giảm nhiệt của cơ thể trong những ngày nóng và nắng. Hơn nữa, đối với những người có tiền sử bệnh máu nhiễm mỡ, việc dùng thức ăn chưa qua tinh chế có thể giúp làm giảm lượng mỡ và nhiệt thừa trong cơ thể. Đối với những người béo phì mà bị huyết áp cao dẫn tới việc thừa nhiệt, việc ăn thêm những loại thức ăn này thực sự rất tốt cho cơ thể. Còn với những người quá gầy do căng thẳng, sợ hãi, quá tích cực, ăn kiêng không đúng cách hay là do hấp thụ nhiều các loại thức ăn nấu quá chín và mặn thì thức ăn chưa qua tinh chế quả là một bài thuốc tuyệt vời. Mặt khác, người mà sức khỏe yếu, thiếu máu, cần phải bồi dưỡng thì nên giảm các loại thức ăn phi thực dưỡng cho đến khi cơ thể đã đầy đủ các dưỡng chất cần thiết.

Tôi cũng khuyên các bạn rằng loại trừ trường hợp những người có cơ quan tiêu hóa quá yếu, mắc bệnh da liễu, vừa phẫu thuật hay có tiền sử dị ứng với đồ ăn chay, thì chúng ta nên xếp những loại thức ăn sống chưa qua tinh chế như đã nói ở trên vào thực đơn của mình. Phần lớn mọi người đều có thể chỉ ra ngay lợi ích của loại thức ăn này- họ cảm thấy khỏe hơn, thoải mái hơn, tươi trẻ hơn, sung sức hơn. Hãy tin vào cảm nhận của cơ thể chứ đừng nên thiển cận chỉ dựa vào sách vở lý thuyết nên hay không nên ăn thứ gì, ăn sao cho đúng cách. Bạn nên tìm hiểu nhiều cách chế biến thức ăn để rồi tìm ra cho mình cách nào là hợp lý và phù hợp nhất đối với bản thân dưới tác động của xã hội, hoàn cảnh địa lý và điều kiện khí hậu.

Có rất nhiều cách chế biến thức ăn thực dưỡng sao cho chúng hấp dẫn hơn, dễ tiêu hóa hơn. Những người bạn của tôi rất thích các loại nước ép trái cây giàu vitamin. Thực tế, chế biến các loại đồ ăn thực dưỡng khá phức tạp và tốn kém. Đối với bản thân tôi, khi quyết định áp dụng chế độ ăn thực dưỡng, tôi thích những món ăn đơn giản, không đòi hỏi các loại dụng cụ đặc biệt mới chế biến được. Tôi đã phát hiện ra rằng không như các loại máy nghiền, xay hay ép ồn ào và phiền toái, cách chế biến thức ăn thủ công có thể giúp bảo quản đầy đủ các vitamin cũng như các dưỡng chất tự nhiên có trong loại thức ăn đó. Nói như vậy không có nghĩa là tôi phủ nhận tác dụng của các loại máy móc. Ví dụ một vài loại nước sốt hay súp cần phải thật nhuyễn và mịn nên vẫn phải cần đến máy sinh tố khi cần thiết. Tôi thích những loại máy móc hiện đại dành cho việc bếp núc. Vậy nên bạn bè có thể dễ dàng chọn quà sinh nhật cho tôi. Tuy nhiên, phần lớn các món ăn thực dưỡng hàng ngày tôi thích chế biến bằng tay vì nó cũng khá là đơn giản. Tôi tin rằng các món ăn đó rất đơn giản, không cần nhiều dụng cụ chế biến hay kĩ thuật nấu ăn phức tạp, chỉ cần chút muối, chút dấm với dầu ô liu ... chúng ta sẽ được những món ăn ngon lành đầy dinh dưỡng.

“Tại sao lại phiền toái”, một sinh viên đã hỏi tôi như vậy trong một lần tôi hướng dẫn cách làm salad muối. Hay “Tại sao lại phải chuẩn bị và trộn chúng lại với nhau trong khi chúng ta có thể ăn sống”. Những câu hỏi phát sinh như thế này là điều hợp lý. Như chúng ta đã biết rằng salad muối dễ tiêu hóa hơn. Hơn nữa, nó còn giúp tăng công dụng của các loại vitamin và các chất dinh dưỡng vì quá trình trộn dần dần phá vỡ các chất xơ cứng làm ảnh hưởng đến quá trình tiêu hóa. Hơn nữa, những vị thơm ngon nhất đều chứa trong nước ép rau quả. Quá trình muối đã làm cho nước từ rau quả tiết ra. Do đó, khi thưởng thức món salad muối, chúng ta sẽ thấy rất ngon và tươi mát

“Tôi có thể ăn các loại salad đóng gói sẵn được không” là một câu hỏi khá phổ biến. Các loại thức ăn như thế này được bán trong các khu chợ của người Châu Á và chúng cũng cũng khá tốt nếu bạn thích. Riêng cá nhân mình, tôi đã từ bỏ các loại thức ăn đó từ nhiều năm trước vì tôi không thích để đồ ăn trong các túi nilon. Hiện tại, tôi sử dụng một cái bình gốm nhỏ. Bạn có thể mua nó ở các cửa hàng bán dụng cụ nấu ăn hay mua trên mạng Internet.Tất cả dụng dụ bạn cần là một cái bình, một cái đĩa phẳng để vừa vào trong lòng bình gốm và để úp lên trên hỗn hợp rau quả khi đang muối và một vật nặng để tạo sức ép giúp hỗn hợp ngập chìm trong nước. Vật nặng thì tôi thường dùng lọ đựng đậu lớn, đá hay là một cục gạch sạch.

Một câu hỏi cũng khá phổ biến khác là: “Tôi có nên rửa salad muối trước khi ăn?”. Tôi khuyến khích các bạn nên rửa chỉ trong trường hợp nó quá mặn. Bởi vì việc rửa làm cho salad mất mùi vị và dinh dưỡng. Nếu bạn muốn salad không bị mặn, đơn giản bạn chỉ cần giảm lượng muối trước khi chế biến. Như vậy, bạn sẽ không cần rửa qua trước khi ăn nữa.

Bạn nên bảo quản salad muối trong tủ lạnh hay những chỗ thoáng mát. Vị của salad sẽ ngon hơn sau 1 đến 2 ngày. Nên nhớ trước khi cất vào nơi bảo quản, bạn phải bỏ vật nặng ra nếu không nó sẽ giống như là dưa góp hơn là salad muối.



____
sưu tầm



Nam Mô A Di Đà Phật.

Có những thói quen tưởng sạch sẽ nhưng xét theo khoa học lại mất vệ sinh và gây hại sức khỏe.

Trong thực tế, có những thói quen mà chúng ta thường nhầm tưởng rằng làm như vậy là rất sạch sẽ, vệ sinh, nhưng xét về phương diện khoa học, chúng không những mất vệ sinh mà còn gây hại cho sức khỏe.

1. Dùng giấy trắng, giấy báo để gói đồ ăn. Không ít người vì lý do “nhất cử lưỡng tiện” nên dùng giấy trắng hoặc báo mới để gói đồ. Đó là thói quen vô cùng mất vệ sinh.

Bởi trong quá trình sản xuất giấy các loại, không thể tránh khỏi việc sử dụng chất tẩy rửa. Chất tẩy rửa này sau khi tiếp xúc với thực phẩm sẽ gây ra các phản ứng hóa học, kết quả của những phản ứng ấy là những chất gây hại lưu lại trên thực phẩm. Người ăn phải sẽ có hại cho sức khỏe, nếu ăn những thực phẩm ấy trong thời gian dài có thể gây ngộ độc, thậm chí nguy hại đến tính mạng.

2. Dùng giấy vệ sinh lau chùi đồ dùng đựng thức ăn, trái cây. Theo điều tra chất lượng giấy vệ sinh trên diện rộng ở Trung Quốc, rất nhiều loại giấy vệ sinh vẫn chưa trải qua quá trình khử độc tố hoặc khử độc không triệt để, còn chứa nhiều loại nấm mốc, vi khuẩn rất dễ bị tách ra và bám vào vật tiếp xúc với nó (như lau bát đũa, cốc chén, trái cây…).

Do đó, cần lưu ý lựa chọn những loại giấy ăn đạt tiêu chuẩn khử trùng, khử độc để bảo vệ sức khỏe.

3. Dùng khăn trải bàn ăn bằng nhựa, ni-lông. Điều tiện ích mà một số nhà hàng hiện nay hay dùng đó là dùng ni-lông hay khăn nhựa để trải bàn. Cách làm này vô cùng có hại cho sức khỏe. Bởi nhựa rất dễ bắt bụi, tích lũy nấm mốc, vi khuẩn, hơn nữa bản thân chất liệu nhựa đã chứa trong mình vinyl clorua độc hại. Khi chúng tiếp xúc với khăn ăn hay thực phẩm sẽ lây truyền những chất gây hại vào cơ thể. Nếu những chất này tích lũy lâu, cơ thể dễ dàng mắc các bệnh viêm nhiễm như: viêm nhiễm đường ruột, xơ gan, ung thư gan…

4. Dùng lồng bàn đậy thức ăn để tránh ruồi muỗi. Làm cách này dù có ngăn được ruồi muỗi không đậu trực tiếp trên thức ăn nhưng chúng để lại những tế bào trứng gây bệnh bám trên lồng bàn, rồi rơi vào thức ăn qua khe hở, gây mất vệ sinh, thức ăn dễ bị ôi thiu hơn và đồng thời gây hại cho sức khỏe.

5. Dùng khăn để lau dụng cụ đựng thức ăn, hoa quả. Sau khi rửa đồ dùng chứa thức ăn, hoa quả, tốt nhất nên để chúng nơi thoáng mát chờ khô tự nhiên, chứ không nên dùng khăn để lau chùi. Khăn tuy bề ngoài có vẻ sạch sẽ nhưng bên trong chứa không ít các loại nấm mốc, vi khuẩn. Dùng khăn lau sẽ làm tăng độc tố cho đồ ăn, gây hại sức khỏe.

6. Dùng rượu trắng để khử độc cho bát đũa. Một số người có thói quen dùng rượu trắng để lau bát đũa với mục đích khử trùng. Xét về mặt y học, rượu phải có nồng độ 75% mới có tác dụng khử độc, khử trùng, tuy nhiên những loại rượu trắng bình thường chỉ đạt nồng độ khoảng trên dưới 56%. Do đó, dùng rượu trắng để khử độc về cơ bản là vô tác dụng, hơn nữa nó còn lưu lại mùi
rượu khó chịu, làm giảm hứng thú ăn uống.

7. Hâm nóng lại những thực phẩm dễ biến chất để ăn. Nhiều thực phẩm dễ bị hư hỏng khi để qua đêm hay một thời gian khá dài như: trứng tráng, canh cá… Nhiều người lầm tưởng rằng hâm nóng lại ở nhiệt độ cao những thực phẩm ấy là đã có tác dụng khử độc tố, vi khuẩn. Tuy nhiên, có một số loại vi khuẩn “cứng đầu” sẽ không dễ dàng bị chết khi gặp nhiệt độ cao. Do đó, cần tránh tuyệt đối cách làm thiếu khoa học này.

8. Dùng khăn (giẻ lau) để lau bàn ăn. Sau khi sử dụng khăn lau bàn khoảng một tuần, số lượng vi khuẩn được sản sinh vô cùng lớn. Nếu không giặt rửa thường xuyên sẽ lưu lại vi khuẩn, chất gây hại trên bàn ăn, từ đó gián tiếp đi vào cơ thể bằng nhiều cách.

Do đó, nên thường xuyên rửa hay cho khăn lau bàn vào nước nóng để khử trùng, thời gian khoảng 2-3 ngày là tốt nhất.

9. Cắt bỏ phần trái cây hỏng, dập nát là có thể ăn. Nhiều người cho rằng, cắt bỏ phần quả dập nát đồng nghĩa với việc họ đã “trừ khử” được phần mất vệ sinh.

Tuy nhiên, trên thực tế, khi cắt bỏ phần dập nát ấy, những phần khác trong trái cây cũng vẫn chịu tác động, nhận những vi khuẩn chuyển hóa từ phần trái cây hỏng, dập nát qua. Thậm chí những vi sinh vật gây hại ấy bắt đầu sinh sản mạnh sang các vùng khác, là tác nhân gây rối loạn cơ thể, đột biến tế bào, từ đó gây ra các chứng bệnh ung thư.

Do đó, dù trái cây có bị hỏng, thối, dập nát một phần nhỏ cũng đừng tiếc rẻ, ngại ngần vứt bỏ.

10. Hễ ngủ dậy là gấp chăn màn. Khi hoạt động, cơ thể tiết ra lượng lớn mồ hôi, khi ngủ cũng không ngoại lệ. Ngay sau khi ngủ dậy mà gấp chăn màn, không để khoảng thời gian ngắn cho mồ hôi ấy khô, bay hơi, lâu dần sẽ gây mùi hôi khó chịu cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho vi khuẩn sinh sản, gây hại cho sức khỏe.

Cách làm đúng: Sau khi ngủ dậy, lật tung chăn màn, để đó khoảng 10 phút rồi mới gấp gọn chúng. Tốt nhất nên phơi nắng chăn màn 1 lần/ tuần.

11. Trường kỳ sử dụng một loại kem đánh răng. Nhiều người cho rằng thay đổi kem đánh răng sẽ làm hỏng men răng, gây viêm nhiễm… do răng phải “gánh chịu” sự thay đổi các thành phần chất hóa học. Tuy nhiên, điều này hoàn toàn sai lầm.

Mỗi loại kem đánh răng hay nước súc miệng đều có tác dụng đặc trị riêng biệt mỗi loại vi khuẩn. Do đó, nếu sử dụng một loại kem đánh răng trong thời gian dài sẽ làm cho các vi khuẩn gây bệnh ở khoang miệng “nhờn thuốc”, dần dần thích nghi với điều kiện cũ, từ đó sản sinh chất kháng thuốc gây hại sức khỏe.

Do đó, cần phải thay đổi kem đánh răng thường xuyên, tốt nhất thay theo định kỳ 1-2 tháng thay một lần.

Bé Lê Nguyễn Hoàng L., 5 tháng tuổi, nhập viện Bệnh viện Nhi Đồng 2 vì khò khè kéo dài dù đã điều trị nhiều nơi. Tại khoa hô hấp tuy được điều trị tích cực nhưng bệnh tình của bé vẫn không thuyên giảm nhiều.

Các bác sĩ đã hội chẩn quyết định chụp CT scan dựng hình ngực cho bé, phát hiện bé bị dị tật vòng mạch máu do cung động mạch chủ đôi. Vòng mạch máu này như một chiếc nhẫn kẹp lấy khí quản và thực quản gây chèn ép lên khiến bé khò khè kéo dài. Bé đã được lên chương trình phẫu thuật cắt vòng mạch này nhằm giải phóng sự chèn ép lên khí quản - thực quản. Hiện bé đã hồi phục tốt, hết khó thở và khò khè, bú tốt, lên cân, xuất viện sau bảy ngày.

Vòng mạch máu do cung động mạch chủ đôi là dị tật bẩm sinh hiếm gặp, chiếm dưới 1% tổng các dị tật tim. Bệnh thường có biểu hiện khò khè kéo dài xuất hiện sớm (vài tuần đến vài tháng sau sinh) điều trị thuốc không khỏi. Ở trẻ lớn bệnh thường biểu hiện dưới dạng viêm hô hấp tái phát nhiều lần, nuốt nghẹn, khó thở, chậm lớn...

Theo BS Chìu Kín Hầu - trưởng đơn vị tim mạch kỹ thuật cao Bệnh viện Nhi Đồng 2, bệnh có thể gây các biến chứng trầm trọng như đột tử, tổn thương nghiêm trọng lên khí quản, phế quản; do đó phẫu thuật phải được thực hiện càng sớm càng tốt. Đối với những trường hợp chèn ép có hẹp khí phế quản cố định đòi hỏi phải phẫu thuật tái tạo khí phế quản.

Theo các nhà khoa học, có sáu yếu tố mà những người ăn thịt có nguy cơ mắc bệnh, phần lớn là bệnh tim mạch và ung thư:
(1) Trong thịt động vật và những phó sản liên hệ như trứng, bơ, pho mát và sữa có chứa nhiều chất cholesterol và chất béo bão hòa 
(2) Thịt động vật không có chất xơ và carbon hydrate 
(3) Tiêu thụ thịt động vật và các sản phẩm bơ sữa làm yếu hệ tiêu hóa dẫn đến nhiều dạng rối loạn đường ruột 
(4) Chất độc của các loại thức ăn do công nghiệp chế biến và phương pháp nuôi súc vật theo kiểu hiện đại mang lại 
(5) Nhiễm trùng trong thịt động vật, và 
(6) Chất đạm protein thịt động vật. 


Cụ thể: 
(1) Cholesterol và chất béo bão hòa: Cholesterol chỉ có trong thịt, trong lòng đỏ trứng, bơ, pho mát, sữa và tôm cá, mà không có trong các thực phẩm có nguồn gốc thực vật. 
Do cholesterol không thể hòa tan trực tiếp vào máu, nên tự nó tìm cách gắn vào các protein, vốn có thể tan được, để đi vào máu. Tuy nhiên, lượng cholesterol cao, nhất là loại cholesterol xấu LDL luôn luôn có khuynh hướng tích tụ chung quanh các thành động mạch, gây ra hiện tượng co thắt động mạch và làm hạn chế sự lưu thông của dòng máu. 
Ngoài vấn đề sinh ra các bệnh liên hệ đến tim mạch, nhiều cholesterol và chất béo bão hòa còn có khuynh hướng thúc đẩy một số tế bào ung thư nào đó phát sinh, nhất là ung thư vú. Sự chuyển hóa thành năng lượng của chúng có tác dụng đối với kích thích tố nữ, mà kích thích tố nữ lại có tác dụng thúc đẩy sinh ra ung thư vú, ung thư tử cung và ung thư buồng trứng. 
Chất béo, nhất là chất béo bão hòa dư thừa có thể bị tích tụ ở gan, đây là nguyên nhân chính gây ra ung thư gan. Tưởng cũng cần nói thêm, cơ thể chúng ta tự sản xuất đủ lượng cholesterol cần thiết hàng ngày mà không cần tiêu thụ thêm các thực phẩm thịt cá từ bên ngoài đem vào. 
Bằng Chứng Y Khoa:
- Một công trình nghiên cứu lớn nhất thế giới được thực hiện từ năm 1949 và vẫn con đang tiếp diễn đến ngày nay với 5.000 người nam và người nữ tham dự ở Framingham, Massachusetts. Trong số những kết quả được công bố là những người đàn ông 50 tuổi có lượng cholesterol cao hơn 295 mg/dl có mức độ nguy cơ lâm bệnh nhồi máu cơ tim nhiều hơn 9 lần những người có lượng cholesterol 200 mg/dl. Ngoài ra họ không tìm thấy một người nào có lượng cholesterol dưới 150 mg/dl bị nhồi máu cơ tim. 
- Trong nghiên cứu thí nghiệm với 557 ca bệnh và 826 ca thí nghiệm năm 1981 các nhà nghiên cứu đã cho biết nguy cơ liên quan đến ung thư vú tăng lên cùng với việc tiêu thụ thịt bò và các loại thịt khác. 
- Trong một nghiên cứu lớn khác tại Pháp năm 1986 với hàng ngàn phụ nữ cho thấy nguy cơ gia tăng ung thư vú là do hấp thụ những sản phẩm từ sữa vào cơ thể. Phụ nữ ăn pho mát thường xuyên có nguy cơ mắc bệnh cao hơn 50% so với những người không ăn pho mát. Những phụ nữ uống sữa bò thường xuyên cũng có nguy cơ nhiễm bệnh cao hơn 80%. 
(2)Không Có Chất Xơ Trong Thịt Động Vật: Chất xơ là một chất chỉ có trong thực vật, không có trong thịt động vật. Nó có nhiệm vụ giúp thực phẩm di chuyển dễ dàng trong hệ tiêu hóa và làm giảm lượng cholesterol dư thừa trong máu. Ăn ít chất xơ thường gây nên táo bón, bệnh về sự tiêu hóa và các rối loạn khác. Chất xơ được phân ra làm hai loại, loại hòa tan được (solube fiber) và loại không hòa tan được (insolube fiber). Loại hòa tan có nhiều trong cám gạo (rice bran) và cám yến mạch (oat bran), có khả năng làm giảm cholesterol; còn loại không hòa tan có nhiều trong cám lúa mì (wheat bran), không giúp mấy trong việc giảm cholesterol, nhưng giúp cho nhuận trường. 
Bằng Chứng Y Khoa
- Trong các phòng thí nghiệm, các nhà khoa học của Tổ Chức Y Tế Hoa Kỳ, năm 1991 đã khám phá rằng chế độ ăn uống giầu chất xơ sẽ làm giảm nguy cơ gây ung thư ở chuột khoảng 50%. 
- Hai nhà nghiên cứu khoa học là Drs. E. Graft và J.W. Eaton, cho biết rằng nhiều thực phẩm giầu chất xơ lại có nhiều chất phytate, như đậu nành chẳng hạn. Họ cho rằng những loại thực phẩm này bảo vệ chúng ta khỏi bị bệnh ung thư kết tràng (colon cancer) không những vì chất xơ mà còn vì chất phytate 
- Các nhà khoa học đã báo cáo năm 1980 là sự gia tăng cả hai loại ung thư liên quan đến đường ruột, đều do sự gia tăng calories, cholesterol, chất béo và chất đạm thịt. Nguy cơ cao nhất vẫn là chất béo bão hòa. 
- Năm 1974 những nhà nghiên cứu của Viện Ung Thư Quốc Gia Hoa Kỳ cho biết có sự liên hệ ung thư đường ruột với mức tiêu thụ thịt bò cao. Bằng chứng cho biết rằng thịt, nhất là thịt bò, là món gây nên các khối u ác tính trong ruột già. 
- Cuộc nghiên cứu năm 1975 cho biết những con thú trong phòng thí nghiệm được nuôi tới 35% mỡ bò thì có khối u ác tính đường ruột tăng lên đáng kể. 
(3) Tiêu thụ thịt động vật và các sản phẩm bơ sữa làm yếu hệ tiêu hóa dẫn đến nhiều dạng rối loạn đường ruột. Rau đậu và ngũ cốc không bị phân hủy trước khi chúng ta ăn, ngược lại chất đạm thịt động vật bị hư ngay khi con vật vừa bị giết. Để làm ngưng sự phân hủy, người ta đã phải ướp lạnh hay dùng hóa chất, nhưng sự hư rữa sẽ trở lại ngay, khi chúng ta đưa chúng vào bao tử và cho đến khi vào đến đại tràng thì sự thối rưã trở nên nặng và tạo ra những vi sinh độc hại. Đó là chưa kể đến việc tiêu hóa chúng trong hệ thống tiêu hóa con người rất chậm (chậm hơn rau, đậu, mễ cốc và trái cây tới bốn lần), nên rất dễ gây ra tình trạng độc hại, dễ ung thư đường ruột. 
(4) Chất độc của các loại thức ăn do công nghiệp chế biến và phương pháp nuôi súc vật theo kiểu hiện đại mang lại. Một lý do khác nữa là thịt động vật, nhất là thịt động vật được nuôi tại Hoa kỳ và các nước kỹ nghệ tiền tiến, được xử lý với nhiều chất hóa học để làm chúng mau lớn, béo nhanh, tránh bệnh tật. Một số chất trong những chất hóa học này không thể nào tiêu hóa được hết, chúng còn tồn đọng trong thịt và được phát hiện là những hóa chất gây ung thư. Khi phát hiện một con vật có một khối u trong một bộ phận nào đó của cơ thể, họ chỉ cắt bỏ phần đó mà thôi, phần còn lại có thể có tế bào nhiễm ung thư vẫn được tiếp tục sản xuất dưới các hình thức khác như thịt bầm, thịt lát hay hot dogs. Những phần cắt bỏ, tiếc thay, được tập trung lại với những chất phế thải khác của lò sát sinh và hàng tỷ pound phân gà lấy từ các xưởng chăn nuôi gà trộn lại thành thức ăn mới cho heo, bò và gà, bất kể những thức ăn này có nhiễm các mầm mống gây ung thư hay bệnh truyền nhiễm. 
(5) Nhiễm trùng trong thịt động vật: Trung tâm kiểm soát bệnh dịch CDC ở Atlanta ước tính mỗi năm ở Hoa Kỳ có khoảng 80 triệu trường hợp bị mắc bệnh do thực phẩm gây ra, trong số đó có 9000 người chết. Vi khuẩn salmonella gây ra 4 triệu người ngộ độc trong đó có gần 1000 người chết. Vi khuẩn campylobacter, loại vi khuẩn gây ra bệnh viêm cấp tính đường tiêu hóa, gây ra 6 triệu người bị bệnh mỗi năm và có khoảng 400 người chết. Vi khuẩn E-coli, một loại vi khuẩn tìm thấy trong trong thịt bò nhiễm độc của cơ sở sản xuất thịt Hudson Foods và Sara Lee gây ra 250 người chết và làm cho 20 ngàn người lâm bệnh mỗi năm. Trong năm 1994 USDA đã thăm dò và tìm thấy 15% thịt bò có mang vi khuẩn E-coli, 30% thịt gà có vi khuẩn salmonella, và 60 đến 80% thịt gà có vi khuẩn campylobacter. 
Trong các thực phẩm đồ biển cũng có một loại vi khuẩn mang tên Vibrio vulnificus, đã gây ít nhất cho 87 người chết từ năm 1989. Người ta cũng thấy có cả siêu vi khuẩn hepatitis A trong trai sò (shellfish). Chính bác sĩ McDougall nói rằng: "Tôi không khuyên mọi người ăn thịt gà và cá để thay cho thịt bò và heo, bởi vì như vậy không có thay đổi gì hết. Dinh dưỡng như vậy vẫn nguy hiểm vì vẫn nhiều chất béo, nhiều chất cholesterol, không có chất xơ và vẫn có chất độc ô nhiễm". 
(6) Chất đạm thịt động vật (animal protein): Chất đạm thịt động vật có tác dụng nâng cao lượng cholesterol trong máu khi so sánh với chất đạm có nguồn gốc từ ngũ cốc. Một nghiên cứu cho biết là chất đạm thịt bò gia tăng lượng cholesterol trong máu tới 19 phần trăm và áp huyết tâm thu cũng gia tăng theo. 
Nói tóm lại, nguyên nhân gây bệnh tật chính là do ăn thịt động vật, các nội tạng thú vật, cá, tôm, cua, sò ốc, hến và trứng, bơ, sữa, và cũng vì thế, bốn vị bác sĩ nổi tiếng trong giới y khoa thế giới mà chúng tôi đã đề cập đến trong chương trước, đã khuyến cáo chúng ta nên phòng bệnh hơn là chữa bệnh bằng cách từ bỏ ăn thịt cá và thay thế vào đó là ăn rau, đậu, ngũ cốc nguyên chất và trái cây, mà ngày nay người Hoa Kỳ thường gọi là "healthy foods". Khoa học đã chứng minh dinh dưỡng bằng cá thịt không tốt, mang lại nhiều căn bệnh hiểm nghèo như tim mạch, ung thư, tiểu đường, vân vân. 

(trích trong cuốn: Dinh dưỡng ngăn ngừa bệnh tật - Tâm Diệu) 
http://phattuhatinh.com/default.aspx?module=news&ID=257&CatID=73


Nam Mô A Di Đà Phật.

Mùa hạ có 3 tháng, tính từ tháng 4 - 6 âm lịch, bắt đầu từ ngày lập hạ cho đến ngày lập thu, bao gồm 6 tiết khí: lập hạ, tiểu mãn, mang chủng, hạ chí, tiểu thử và đại thử. Đây là mùa dương khí vượng nhất trong năm, thời tiết nóng bức và ẩm thấp. Quá trình trao đổi chất trong cơ thể con người diễn ra mạnh mẽ, dương khí phát ra ngoài, âm khí tiềm phục ở trong. Các lỗ chân lông giãn rộng, mồ hôi tiết ra nhiều để điều hòa thân nhiệt nhưng cũng vì thế mà tà khí dễ xâm nhập vào trong. Hệ thống mao mạch ngoại vi cũng giãn ra, khí huyết lưu thông nhanh và mạnh hơn. Công năng của tỳ vị có xu hướng suy giảm vì nóng bức uống nhiều làm cho dịch vị bị pha loãng, quá trình tiêu hóa và hấp thu thức ăn dễ bị rối loạn.

Sách Dưỡng sinh thư đã viết: “Hạ chí hậu thu phân tiền, kỵ thực phì nhi bính, hoắc du tô chi thuộc, thử đẳng vật dữ tửu tương qua quả thực vi tương phỏng, hạ nguyệt đa tật dĩ thử” (mùa hạ nên kiêng ăn đồ béo ngậy, bơ sữa và rượu, những thứ này dễ gây nhiều bệnh tật).

Tiết trời nóng ẩm cũng là điều kiện thuận lợi cho các vi sinh vật phát triển mạnh (Đông y gọi là tà khí) làm cho thực phẩm dễ ôi thiu, biến chất, trong khi đó vì uống nhiều nước dịch dạ dày bị pha loãng nên khả năng sát khuẩn giảm thấp càng làm cho nguy cơ ngộ độc thức ăn tăng cao. Bởi vậy, vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm trở nên hết sức cấp bách. Để dự phòng “bệnh tòng nhập khẩu” cần chú ý giữ gìn vệ sinh ăn uống, không dùng thực phẩm ôi thiu, không uống nước lã, nước nhiễm bẩn, rau quả tươi phải được rửa thật sạch...

Đông y cho rằng: Thử (nắng nóng) là chủ khí mùa hạ, là dương tà, tính thăng tán dễ làm hao tổn khí và tân dịch. Thử tà xâm nhập vào cơ thể gây ra nhiều mồ hôi làm tổn thương tân dịch, nếu không kịp thời bù đắp thậm chí có thể làm hao tổn nguyên khí, biểu hiện ra bên ngoài bằng các triệu chứng như mệt lả, khó thở, ngại nói, có khi đột nhiên ngã lăn bất tỉnh (say nắng, say nóng). Hơn nữa, thử thường kiêm với thấp (độ ẩm), thấp là âm tà dễ làm tổn thương dương khí. Đặc điểm của thấp tà là nặng trệ, kết dính, dễ gây thương tổn tỳ dương. Biểu hiện trên lâm sàng bằng các triệu chứng như chân tay tê mỏi, mình mẩy nặng nề, đầu nặng như đeo đá, không muốn ăn, hay đầy bụng, dễ đi lỏng, thậm chí có thể phù nhẹ hai chân...

Bởi vậy, trong mùa hạ, Đông y khuyên nên ăn uống thanh đạm, han chế đồ bổ béo xào rán hoặc sống lạnh để giảm gánh nặng cho tỳ vị. Ngoài ra nên chú trọng dùng nhiều đồ ăn thức uống có tác dụng thanh nhiệt giải thử, lợi niệu trừ thấp như dưa hấu, mướp đắng, dưa chuột, bí đao, đậu xanh, đậu đen, cháo ngũ đậu, cháo ý dĩ, cháo đậu xanh, cháo biển đậu, cháo lá sen, trà nhân trần, trà hoa cúc, trà nụ hoặc lá vối, trà actiso, trà khổ qua... Những ngày quá nóng bức có thể dùng một chút nước lạnh hoặc nước đá để giúp cơ thể giải nhiệt nhưng không được dùng nhiều để tránh làm thương tổn tỳ vị, tạo điều kiện cho thấp tà gây bệnh bên trong.

Khi mồ hôi ra nhiều phải chú ý bổ sung đủ lượng nước đã mất bằng đường ăn uống. Cổ nhân có câu: “Hãn vi tâm dịch” (mồ hôi là dịch của tâm), bởi thế khi mất mồ hôi âm dịch trong cơ thể nói chung và âm dịch trong tạng tâm nói riêng (gọi là tâm âm) cần chú ý trọng dụng những đồ ăn thức uống có công dụng thanh nhiệt dưỡng âm như thạch đen, chè đậu đen, trà mạch môn, nước ép quả lê, nước ép ngó sen, nước mơ, nước mận, nước dâu, trà bát bảo...

Ngoài việc thanh nhiệt giải thử và dưỡng âm, ăn uống trong mùa hạ còn phải hết sức chú ý tránh làm thương tổn tỳ vị. Theo Đông y, các thực phẩm có công dụng phương hương tỉnh tỳ, kiện tỳ hóa thấp, giải thử đều trực tiếp hoặc gián tiếp giữ gìn và nâng cao năng lực hoạt động của tỳ vị, ví như các loại cháo chế từ đậu xanh, đậu côve, bạch biển đậu, ý dĩ, hạt sen, củ mài...; các loại trà hoắc hương, trà nụ vối, trà hương nhu, trà lá sen... Nên chú ý dùng thêm các đồ ăn thức uống có vị chua ngọt, cay thơm để nhằm mục đích khai vị, kích thích cảm giác thèm ăn như các loại canh chua chế từ quả sấu, me, khế, quả dọc, tai chua, quả chay, chua me đất hoa vàng... và các loại nước cam, nước chanh, nước mơ, nước sấu...

Tuy nhiên, cần chú ý không nên dùng quá nhiều đường tinh luyện khi pha chế các loại nước giải khát. Để bảo vệ nguyên khí, cổ nhân khuyên “bảy mươi hai ngày mùa hạ nên bớt vị đắng, tăng vị cay để dưỡng phế khí (Thiên kim yếu phương)”. Bởi vì căn cứ vào quy luật ngũ hành, tâm thuộc hỏa, phế thuộc kim, hoả khắc kim, tâm hỏa quá thịnh sẽ khắc phạt phế kim, vị đắng vào tâm, vị cay vào phế, nếu ăn thêm một ít vị cay thì phế khí sẽ được trợ dưỡng, nếu ăn bớt vị đắng thì tâm hỏa sẽ không quá vượng thịnh mà hại phế khí.


Cuối cùng, trong vấn đề dưỡng sinh ăn uống mùa hạ, Đông y còn có một quan điểm hết sức độc đáo, đó là “xuân hạ dưỡng dương”. Mùa hạ nóng nực tuy phải dùng nhiều đồ ăn thức uống có tác dụng thanh nhiệt giải thử nhưng vẫn cần lấy ôn ấm làm chính để trợ giúp khí dương. Bởi vì, các nhà dưỡng sinh Đông y cho rằng mùa hạ tuy dương khí vượng thịnh bên ngoài nhưng khí âm lại tiềm ẩn bên trong cơ thể, vậy nên “trời tuy nóng chớ tham mát, dưa tuy ngon chớ ăn nhiều”. Nếu không biết giữ gìn dương khí trong mùa hạ thì mùa đông sẽ mắc nhiều bệnh tật, phải biết thuận ứng thiên thời để bồi bổ dương khí, trừ khử âm hàn có như vậy mới gọi là phòng bệnh triệt để. Bởi vậy, trong mùa hạ, việc chọn dùng một số đồ ăn uống có tính ôn bổ cũng là rất cần thiết, đặc biệt đối với những người có bệnh mạn tính và thể chất vốn suy nhược do dương khí kém.

(Theo Sức khỏe và đời sống)

Nam Mô A Di Đà Phật.




NEW YORK (Reuters) - Người Mỹ nên ăn nhiều ngũ cốc nguyên vẹn (whole grains), còn nguyên cám và mầm, để giúp họ giảm những nguy cơ bị nghẽn động mạch, lên cơn đau tim và cơn đột quị, theo lời các nhà nghiên cứu.

Trong một cuộc khảo sát về 7 cuộc nghiên cứu sâu rộng, các chuyên gia thấy rằng sự tiêu thụ nhiều ngũ cốc nguyên vẹn giúp làm giảm những nguy của bệnh tim mạch. Tính trung bình, những người lớn mỗi ngày ăn 2.5 phần (serving) thức ăn từ ngũ cốc nguyên vẹn thì giảm được khoảng 25% sự phát sinh bệnh tim mạch so với những người hiếm khi ăn chúng.

Các chuyên gia tin rằng ngũ cốc nguyên vẹn đem lại phúc lợi cho tim bằng vài cách. Chất xơ và những chất bổ dưỡng khác trong ngũ cốc nguyên vẹn có tác dụng hạ thấp chất cholesterol, làm giảm mức của chất đường trong máu, đồng thời cải thiện chức năng của những huyết quản và giảm chứng viêm trong hệ tuần hoàn.

Nhưng cho tới nay những cuộc khảo sát cho thấy chỉ có một số ít người Mỹ nghe theo lời khuyên hãy ăn 3 phần ngũ cốc nguyên vẹn mỗi ngày, theo lời các tác giả của cuộc nghiên cứu mới. Hơn 40 phần trăm người thành niên ở Hoa Kỳ nói rằng họ không ăn những thứ ngũ cốc nguyên vẹn.

“Nhiều người trong giới tiêu thụ và những chuyên gia y tế không nhận thức về những lợi  ích của ngũ cốc nguyên vẹn đối với sức khỏe,” người cầm đầu cuộc nghiên cứu, Bác Sĩ Philip B. Mellen, thuộc Ðại Học Wake Forest University ở Winston-Salem, North Carolina, nói trong phúc trình.
Một số người cũng thiếu hiểu biết về những gì chứa đựng trong ngũ cốc nguyên vẹn. Chúng gồm có ba thành phần chính: cám (bran) và mầm (germ), là hai thứ giàu chất xơ và những chất bổ dưỡng, và nội nhũ (endosperm) có chứa tinh bột và chất đạm (protein). Ngũ cốc chế biến, như bánh mì trắng, các thứ bánh ngọt, và những thực phẩm ăn vặt (snack foods) được làm từ những thứ bột trắng đã mất cám và mầm.

Trái lại, những ngũ cốc nguyên vẹn - như lúa mạch, lúa mì nguyên vẹn, gạo lứt - còn giữ nguyên cám và mầm rất giầu chất bổ dưỡng.

Căn cứ vào những cuộc khảo sát mới nhất, Bác Sĩ Mellen và các đồng nghiệp cho rằng giới chuyên gia y tế cần nên “tăng gấp đôi” những nỗ lực của họ để thúc đẩy người ta hãy ăn ngũ cốc nguyên vẹn nhiều hơn.

Họ đã báo cáo những kết quả nghiên cứu trên bản trực tuyến của đặc san Nutrition, Metabolism... Cardiovascular Diseases (dinh dưỡng, biến dưỡng và những bệnh tim mạch).

Ðể khảo sát, Bác Sĩ Mellen và các đồng nghiệp đã thu thập những số liệu từ 7 cuộc nghiên cứu sâu rộng liên quan tới hơn 285,000 người đàn ông và đàn bà đã được theo dõi từ 6 tới 15 năm. Tính một cách tổng quát, những người nào ăn nhiều ngũ cốc nguyên vẹn nhất thì giảm được những nguy cơ lên cơn đau tim hoặc đột quỵ, hoặc chết vì những nguyên nhân liên quan tới tim mạch.


Ðiều này đúng sau khi đã xét tới những yếu tố sức khỏe khác, như chế độ dinh dưỡng tổng quát, tập thể dục, sức nặng của thân thể, ghiền hút thuốc lá.

Vì vai trò quan trọng đối với sức khỏe con người, chất xơ thực phẩm ngày càng được chú ý nghiên cứu, từ việc dùng chất xơ làm thức ăn chính, thức ăn bổ sung đến việc đưa ra những chế độ ăn giàu chất xơ. Nguồn cung cấp chất xơ duy nhất cho cơ thể là từ các loại rau quả, đậu, hạt, ngũ cốc.


Nguồn cung cấp chất xơ

Chất xơ là chất bã thức ăn còn lại sau khi được tiêu hóa, gồm các chất tạo thành vách tế bào (cellulose, hemicellulose, pectin và lignin) và các chất dự trữ, bài tiết bên trong tế bào (gôm, nhầy). Hiện nay, các chất sáp, cutin, glycoprotein (chất đạm cấu tạo vách tế bào không tiêu hóa được) cũng được xếp vào loại chất xơ thực phẩm.
Chất xơ cung cấp cho cơ thể con người chủ yếu là từ trái cây, rau ăn lá, củ rễ, rau đậu, các loại đậu hạt, ngũ cốc còn lớp vỏ cám, cám gạo. Chất nhầy (là loại chất xơ tan được) có trong rau mồng tơi, rau đay, mướp, thanh long, hoàng tinh, xương sâm, xương sáo (thạch đen), hột é (húng quế), hột é trắng (trà tiên), vỏ hột đười ươi, mủ trôm, rau câu, lá găng... Mỗi loại rau quả chứa loại chất xơ và lượng chất xơ khác nhau. Rau, củ, quả nào càng nhiều bã và càng già thì chứa càng nhiều chất xơ.

Tác dụng của chất xơ

Trước kia, người ta xem chất xơ là một chất trơ không có giá trị dinh dưỡng vì không tiêu hóa được. Nhưng ngày nay, chất xơ được xem có ý nghĩa vô cùng quan trọng.

Tác dụng đáng chú ý nhất của chất xơ là giúp cải thiện chức năng ruột già. Nhờ khả năng ngậm nước mạnh, chất xơ thực phẩm được xem như thuốc nhuận tràng loại tạo khối phân, giúp bình thường hóa tình trạng phân và số lần đi tiêu. Như vậy, tác dụng chính của chất xơ thực phẩm đối với ruột già là chống táo bón và cung cấp năng lượng hoạt động cho tế bào ruột già. Ăn thiếu chất xơ có thể gây rối loạn ruột già. Dùng các loại rau quả có nhiều xơ là một trong những cách tốt nhất để phòng ngừa và điều trị táo bón chức năng.

Chất xơ giúp phòng ngừa tình trạng khó đi tiêu ở bệnh nhân tim mạch, bệnh hậu môn (trĩ, mạch lươn), phụ nữ mang thai... Dùng lâu dài làm giảm được triệu chứng của hội chứng đại tràng kích thích, bệnh túi thừa đại tràng và viêm đại tràng mạn tính; Giảm triệu chứng trong tiêu chảy cấp và giúp điều chỉnh rối loạn hoạt động ruột do mổ ruột già hay hồi tràng.

Các nhà dinh dưỡng khuyên chúng ta nên ăn rau, trái cây hơn là uống nước ép của chúng; Ăn ngũ cốc còn lớp cám hơn là ngũ cốc đã loại bỏ cám. Trung bình, mỗi ngày nên ăn khoảng 2 chén rau đầy (trên 400g). Tác dụng chống táo bón thường thấy rõ sau 24 giờ và đạt mức tối ưu sau 1-3 ngày dùng liên tục. Đây là điều cần chú ý vì hầu hết bệnh nhân táo bón thường nôn nóng, muốn dùng món ăn hay thứ thuốc nào có tác dụng nhanh, mà nhanh - thường không hẳn là tốt, lại dễ gây lệ thuộc.

Tác dụng quan trọng thứ hai của chất xơ thực phẩm là góp phần làm giảm cholesterol máu. Điều cần lưu ý là chất xơ trong thức ăn có làm giảm cholesterol máu hay không còn tùy thuộc vào loại chất xơ, lượng chất xơ ăn vào, mức độ tăng cholesterol máu... Thức ăn có chứa chất xơ tan như cám yến mạch, pectin, lúa mạch, đậu hạt, rau đậu, trái cây và rau có thể làm giảm được 5-10% lượng cholesterol máu, có khi tới 25%, nhưng nếu tách riêng chất xơ ra để dùng thì chỉ làm giảm được cholesterol dưới 5%.

Tác dụng quan trọng thứ ba của chất xơ thực phẩm là hỗ trợ điều trị bệnh đái tháo đường. Nhiều nghiên cứu đã chứng minh một số chất xơ tan làm tinh bột lưu lại lâu trong ruột, chậm hấp thu glucose, do đó làm lượng đường trong máu không tăng cao đột ngột. Tinh bột chậm tiêu hóa còn tạo cảm giác no, góp phần làm dịu đáp ứng đường huyết. Thức ăn xay thô có tác dụng tốt hơn xay mịn và thức ăn giàu chất xơ tốt hơn là xơ chiết tinh.

Chất xơ còn tác dụng giúp điều chỉnh cân nặng. Chất xơ có tính nhớt như gôm, pectin, gel, chất nhầy sẽ tạo cảm giác no, làm giảm lượng ăn, cản trở khả năng tiêu hóa và hấp thu các chất dinh dưỡng.

Dùng nhiều chất xơ có tác dụng xấu gì không?

Dùng nhiều thức ăn chứa chất xơ không gây nguy hiểm gì ngoài cảm giác tự nhiên là no đầy và đôi khi sôi bụng. Nhưng nếu dùng chất xơ dưới dạng bột khô tinh chế thì có thể gây tác dụng phụ. Người có cơ địa dị ứng hít phải bột khô của chất xơ chiết tinh có thể bị dị ứng.

Người vốn bị hẹp môn vị, dính ruột, bán tắc ruột nếu nuốt phải một lượng lớn chất xơ tan, nhất là bột khô có thể gây tắc thực quản hay tắc ruột do khả năng hút nước đóng cục. Có thể dễ dàng phòng tránh điều này bằng cách không dùng chất xơ dạng bột và uống nhiều nước sau khi dùng chất xơ.
Có nên uống thuốc sau bữa ăn có chất xơ?

Không nên uống thuốc sau bữa ăn có chất xơ vì chất xơ trong thức ăn có thể làm giảm hấp thu nhiều loại thuốc như paracetamol, các thuốc trợ tim loại digoxin hay glycoside trợ tim, calci, sắt, kẽm, đồng, salicylat (aspirin), nitrofurantoin, các dẫn chất của coumarin.

Tốt nhất, nên uống thuốc trước bữa ăn có chất xơ hơn 1 giờ, ngoại trừ thuốc chống viêm. Người không ăn được rau quả có thể bổ sung chất xơ bằng các loại thức ăn làm sẵn chế từ ngũ cốc còn lớp cám (bánh cám, bột cám rắc lên các món ăn khác, cháo gạo lứt, bánh mì đen), rau câu, xương sâm, xương xáo, hột é, mủ trôm v.v...

Cuối cùng, nên tăng từ từ lượng chất xơ ăn vào để giảm thiểu các tác dụng phụ có thể xảy ra. Người trưởng thành khỏe mạnh nên ăn ít béo, nhiều chất xơ từ nhiều nguồn (trái cây, rau, đậu hạt).

Các đối tượng sau đây cần chú ý ăn đủ chất xơ: trẻ em, phụ nữ mang thai và cho con bú, người cao tuổi và người mắc bệnh mạn tính. Chất xơ đặc biệt hữu ích cho người bệnh tiểu đường, vữa xơ động mạch, ung thư, viêm ruột thừa, loét tá tràng, bệnh tim thiếu máu, viêm túi mật, viêm loét đại tràng, bệnh Crohn, giãn tĩnh mạch, thuyên tắc tĩnh mạch sâu, thoát vị ruột. Tuy nhiên, nếu cơ thể đang trong tình trạng thiếu dinh dưỡng mà quá lạm dụng chất xơ, có thể sẽ gây tình trạng mất cân bằng khoáng chất và dinh dưỡng.

Thạc sĩ BS. LÊ HOÀNG SƠN
Trung tâm Dinh dưỡng TPHCM
(Theo Tuổi trẻ)
Powered by Blogger.